(Phần Một)
Làng Ngô Xá Hạ (nay là làng Đồng Chí ) thuộc xã Thiệu Minh cũ (nay là xã Minh Tâm) là một làng có truyền thống văn hoá lâu đời. Không biết làng được hình thành từ khi nào, nhưng qua các bia ký, đặc biệt là bia chùa Cảm Ân thì khẳng định làng được hình thành từ thời rất xa. Trong khuôn khổ bài viết này, chúng ta cùng nghiên cứu quá trình lập làng qua 2 tấm văn bia chùa Cảm Ân đã được Tiến sĩ Hán học Nguyễn Văn Hải (Ban Quản lý Di tích danh thắng Thanh Hoá) đăng trên tuyển tập văn bia Thanh Hóa, tập 3, quyển Hai, xuất bản tháng 3 năm 2020. Các bản gốc của 2 tấm văn bia này đều được sưu tầm từ Viện Viễn đông bác cổ - Pháp (1)
Theo quyển 3, tập 2 tuyển tập văn bia Thanh Hóa, thì:
Từ thời Lý đến hết thời Lê Sơ, Thanh Hoá có 50 tấm văn bia chùa, riêng xã Thiệu Minh cũ có 3 tấm
- Chùa Cảm Ân có 2 bia, đều là bia trùng tu. Chùa này thuộc thôn Hạ, xã Ngô Xá (tức làng Ngô Xá Hạ nay là làng Đồng Chí).
+ Bia thứ nhất chùa Cảm Ân được khắc năm 1676,
+ Bia thứ hai chùa Cảm Ân khắc năm 1745 (bia này hiện đang đặt ở Đình Ngô Xá Hạ)
- Chùa Phúc Xá có 1 bia, được khắc năm 1587 (là một trong hai bia chùa thế kỷ 16 của tỉnh Thanh Hoá, chùa này thuộc xã Hà Xá (thôn Đồng Minh).
Như vậy các chùa đều được trùng tu vào thời Lê Sơ. Xin lưu ý đây là trùng tu, có nghĩa là chùa đã được xây dựng trước thời gian đó.
* Khác biệt lớn nhất giữa sự cung tiến trùng tu của 2 ngôi chùa ở Thiệu Minh và các ngôi chùa khác trong tỉnh là đa số các chùa trong tỉnh đều do các quan lại, chức sắc và người địa phương cung tiến, còn 2 chùa ở Thiệu Minh là do sư, sãi vã, nhân dân địa phương và đệ tử thập phương đóng góp. Trong đó có cả các đệ tử ngoại tỉnh như Hải Dương, Hưng Yên, Nam Định, thậm chí Phúc Kiến – Trung Quốc (thời nhà Minh).
* Cả 2 chùa đều không nói năm xây dựng, chỉ nói chung chung là được xây dựng từ triều trước. Triều trước của Hậu Lê là triều Hồ, Triều Trần, Triều Lý (riêng triều Hồ chỉ kéo dài 7 năm mà Hồ Quý Ly lại chủ trương đề cao Nho giáo, phế bỏ Phật giáo nên không có khả năng xây ở triều Hồ).
Từ đây ta cần lưu ý mấy điểm sau:
a. Bia Chùa Cảm Ân
* Trong bia khắc năm 1676, câu đầu tiên của bia ghi: “Ôi Châu Ái, là nơi đất lành, có ngôi chùa Cảm Ân là đất tốt nhất vậy”.
Vậy địa danh Châu Ái (Thanh Hoá) có từ bao giờ?
Tên của Thanh Hoá qua các thời kỳ:
- Cửu Chân (từ 179 TCN – 523), đến năm 523, nhà Lương đổi thành Châu Ái.
- Từ thời nhà Lương đến thời nhà Lý lúc thì đổi là châu Ái, lúc thì Cửu Chân.
- Đến năm 1029 (năm Thiên Thành thứ 2), nhà Lý đổi tên là phủ Thanh Hoá.
- Thời nhà Trần, nhà Hồ Thanh Hoá được chia làm các châu, huyện. Tên Châu Ái vẫn còn nhưng Châu Ái gồm các huyện Nga Sơn, Bỉm Sơn, Hà Trung, Hậu Lộc. Còn Thiệu Minh ngày nay thuộc huyện Cổ Lôi,
- Thời kỳ thuộc Minh, vùng đất Thiệu Minh vẫn thuộc huyện Cổ Lôi
- Đến thời Hậu Lê thì không còn tên Châu Ái nữa.
Như vậy, xét về địa danh theo thời gian thì Châu Ái bao gồm vùng đất Thiệu Minh phải từ trước năm 1029.
* Lần trùng tu thứ 2 có rất nhiều đệ tử thập phương cung tiến ở các huyện Nga Sơn, Yên Định, Nông Cống, các tỉnh Hải Dương, Hải Phòng, Hưng Yên, Nam Định, thậm chí Phúc Kiến – Trung Quốc.
* Đặc biệt hơn, trong bia ghi: chùa có Tăng lục ty Tăng thống ty Huệ Đạt (tra từ điển phật học thì chức Tăng thống là danh xưng để tôn xưng vị tăng sĩ lãnh đạo tinh thần phật giáo của một quốc gia, hoặc một giáo hội phật giáo). Năm 969, nhà sư Khuông Việt được vua Đinh Tiên Hoàng phong giữ chức Tăng thống đầu tiên trong lịch sử Phật giáo Việt Nam.
* Chùa Cảm Ân trùng tu lần 2 kéo dài trong 7 năm mới hoàn thành, như vậy chùa phải rất lớn.
b. Bia chùa Phúc Hạ;
Chùa có từ triều trước, được xây dựng lại, do các sãi vã và sư chùa xây dựng tháng 2 năm 1586, đến năm 1587 thì hoàn thành.
Tới đây, chúng ta cũng phải nghiên cứu thêm về sự thịnh suy của Phật giáo Việt Nam qua các thời kỳ:
- Phật giáo thời Lý và đầu thời Trần phát triển rất mạnh, được tôn làm Quốc giáo, hầu như làng xã nào cũng xây chùa, có làng có đến 2 ngôi chùa
- Đến cuối thời Trần sang đến nhà Hồ, thời Lê sơ thì Nho giáo phát triển lấn át phật giáo. Năm 1461, “Lê Thánh Tông hạn chế Phật giáo và Đạo giáo chặt chẽ hơn bằng cách cấm quan lại, nhân dân không được xây thêm chùa mới, tự tiện đúc chuông, tô tượng. Hoạt động của bọn thầy cúng, thầy bói, đạo sĩ bị ngăn cấm. Các nhà sư uống rượu, ăn thịt đều bị hoàn tục, phạm tội dâm ô thì bị lưu đày. Người dưới 35 tuổi không được đi tu hoặc đi rồi phải quy giới. Nên khả năng cao là chùa không xây dựng từ cuổi thời Trần. Đến cuối Hậu Lê (1676) mà bia ghi xây dựng từ triều trước, triều trước là Lê sơ thì hạn chế Phật giáo không được xây chùa mới, nhà Hồ và cuối nhà Trần thì Nho giáo lấn át Phật giáo; và còn câu “Ôi Châu Ái” (đầu đời Lý) thì khả năng cao là xây dựng từ thời Lý, trước năm 1029.
- Chùa Cảm Ân rất lớn, thời gian trùng tu xây dựng kéo dài 7 năm. Ảnh hưởng tâm linh rất cao có cả vị đứng đầu Phật giáo quốc gia Tăng lục ty Tăng thống ty Huệ Đạt và đệ tử thập phương cung tiến (huyện Nga Sơn, Yên Định, Nông Cống, các tỉnh Hải Dương, Hưng Yên, Nam Định, Phúc Kiến – Trung Quốc.)
Từ những dữ liệu trong 2 bia trên có thể suy đoán chùa được xây dựng thời Lý.
- Từ đó suy ra làng Ngô Xá Hạ (nay là làng Đồng Chí) cũ phải có tầm ảnh hưởng về phật giáo hoặc có truyền thống văn hoá rất lớn nên vẫn còn lưu giữ được 2/50 tấm bia chùa của các tỉnh Thanh Hoá suốt gần 1000 năm và được Viện Viễn đông Bác Cổ lưu giữ.
Đặc biệt phải có dân trước rồi dân mới xây dựng chùa nên có thể tạm khẳng định làng Ngô Xá Hạ có từ thời Lý và truyền thống văn hoá rất lâu đời.
NỘI DUNG CỦA CÁC VĂN BIA
1. Toàn văn bài dịch nghĩa bia trùng tư (1676) chùa Cảm Ân (đăng trên Tuyển tập Văn bia Thanh Hóa, tập 3, quyển hai, trang 375 - Nhà xuất bản Thanh Hóa tháng 10 năm 2020 – in 1577 cuốn).
Dịch nghĩa:
Bia trùng tu chùa Cảm Ân
Bài minh trên bia về việc các sãi vã hai thôn Thượng, Hạ xã Ngô Xá, huyện Lôi Dương, phủ Thiệu Thiên trùng tu chùa Cảm Ân.
Ôi! Châu Ái là nơi đất lành, có ngôi chùa Cảm Ân là đất tốt nhất vậy. Chùa vốn là di tích cổ, được xây dựng từ triều trước, gần xa đến cầu đảo đều vô cùng linh ứng. Từ xưa đến nay, trải qua thời gian hưng phế, ắt đợi người thiện chung tay gây dựng công nghiệp rực rỡ, người đời ngưỡng vọng. Nay những người có tấm lòng thiện lương cùng nhau phát dương lớn lao vô cùng trùng tu lại chùa. Đương thời vào ngày tháng năm Giáp Dần hưng công xây dựng ba gian điện đường liên tục. Đến ngày tháng năm Bính Thìn lại tu tạo, sửa sang lại các pho tượng Phật, ánh sáng rực rỡ ở trong chùa này ngoài thuyền còn nhìn thấy rõ, bên cạnh bờ tường như sân, đường đều trồng các loại hoa, lát gạch ra đến tận đường, một màu xanh biếc như trúc vậy, sum suê, tươi tốt, màu vàng như hoa Bát nhã vậy (2). Xanh đỏ xen lẫn, hoa khoe sắc thắm, cảnh sắc như chốn đô thành, vô cùng yên tĩnh, giống như tiên cảnh vậy, bèn dựng bia khắc vào đá, làm bài văn chứng minh để truyền lại muôn đời.
Từng nghe: Bùi Tấn công (3) xây chùa Phúc Tiên, Trần Tư mã đúc chuông, Phật tử đông đúc, công đức ấy thật lớn lao vậy. Huống chi, nay các sãi vãi cùng nhau góp tiền đều vui vẻ làm việc thiện, mọi người đều có cùng chí hướng, mục tiêu. Ở chùa này kể về tấm bia này, chẳng ai mà không hứng khởi thiện tâm, vun đắp trở thành quả thiện, lưu truyền mãi mãi, hẹn nhau cùng làm việc thiện, từ bản thân mình mà lan tỏa sang người, mọi người cùng nhau làm việc thiện, chẳng phải từ ít trở thành nhiều sao.
Nay ta làm bài minh nói về đạo lý vậy. Người quân tử vui vẻ có thể lĩnh ngộ được, người có tâm thiện lương sẽ không dám suy nghĩ nông cạn, ngu dại, bèn viết bài minh kể rõ ràng tỉ mỉ ở dưới.
Hội chủ: Thư vệ sử Nghiễm Triêu hầu Lê Chi, tự Đức Minh, người xã Cổ Đô, huyện Đông Sơn và phu nhân Lê Thị Bông, hiệu Diệu Trân.
Nguyễn Sĩ, tự Pháp Đạt, hiệu Đạo Thông; Nguyễn Ngại, hiệu Diệu Hữu; Hoàng Đình Tá, tự Phúc Cảnh; Hoàng Thị Nga, hiệu Diệu Nhẫn; Nguyễn Nghiễm, tự Như Huy; Ngô Thị Xá, hiệu Diệu Năng; Nguyễn Nho, tự Phúc An; Nguyễn Thị Mại, hiệu Diệu Vinh; Hoàng Phó Sứ, tự Như Thông; Lê Thị Lệ, hiệu Diệu Phú; Hoàng Đình Dương, tự Phúc Hiển; Ngô Thị Tường, hiệu Từ Nghĩa; Hoàng Đình Tề, tự Như Đạt; Phùng Thị Quyền, hiệu Diệu Hải; Hà Quang Huy, tự Phúc Hiền; Nguyễn Thị Như,hiệu Diệu Thành; Hoàng Đình Quế, tự Phúc Tăng; Ngô Thị Vạn, hiệu Diệu Nghiêm; Nguyễn Thị Ung, hiệu Diệu Quý; Nguyễn Thị Tập, hiệu Diệu Niệm; Trịnh Thị Nghi, hiệu Diệu Cảm; Nguyễn Thị Thiết, hiệu Diệu Đôi; Ngô Thị Huy, hiệu Diệu Cổn; Hoàng Thị Quải, hiệu Diệu Thắng; Nguyễn Thị Xa, hiệu Diệu ….; Hoàng Thị Nhà, hiệu Diệu Hoan; Nguyễn Thị Giảng, hiệu Diệu Giới; Nguyễn Thị Mẫn, hiệu Diệu Dụ; Hoàng Thị Nhiên, hiệu Diệu Gia; Hoàng Thị Nhất, hiệu Diệu Tâm; Hoàng Đình Vinh, tự Phúc Tước; Hoàng Thị Hiền, hiệu Phúc Thái; Nguyễn Thị Đồ, hiệu Diệu Nhân; Ngọ Thị Đỉnh, hiệu Diệu Khánh; Bản huyện Mạnh Gia xã Lê Đức Phú, tự Phúc Minh; Lê Thị Ngọ, hiệu Diệu Vui; Lê Nhân Tọa; Lê Thị Trật, Lê Viết Phú, Nguyễn Thị Hoa.
Tín thí ở các xã An Khoái, Nguyệt Viên, Ngọ xá, Dũng Quyết, Hạ Dương thuộc các huyện Lôi dương, Hoằng Hóa, Vĩnh Phúc, Chân Phúc, Chân Đông.
Các vị ở phường Yên Trường, Yên Trung huyện Thụy Nguyên.
Cao Văn Thọ, tự Phúc Trường chân nhân; Lê Thị Đàn, hiệu Diệu Khánh chân nhân; Lê Nhân Hòa, tự Phúc Thuần; Nguyễn Thị Nguyên, hiệu Diệu Phương, Lê Thị Nại, hiệu Diệu Hạnh; Tống Thị An, hiệu Diệu Phúc chân nhân; Nữ Thị Hậu, hiệu Diệu …. chân nhân; Nguyễn Thị Cố, hiệu Diệu Lộc chân nhân;
Ngô Xá xã Ngô Văn Lị, Nguyễn Thị Bài.
Làng Sóc Sơn, huyện Vĩnh Phúc: Trịnh Thị Sứ, hiệu Diệu Khang; Trịnh Thị Miên, hiệu Diệu Quảng.
Biện Thượng hương, Trịnh Thị Điển, hiệu Diệu Năng.
Xã Kim Đôi, huyện Thụy Nguyên: Lê Thị Kiêu, hiệu Diệu Thịnh.
Quan viên, hương lão, xã thôn trưởng, cùng già trẻ, lớn bé hai thôn Thượng, Hạ xã Ngô Xá.
Xã Lôi Dương: Cao Thị Ngoạn, hiệu Diệu Đức chân nhân
Xã An Lãng, huyện Thụy Nguyên: Trịnh Thị Thìn, hiệu Diệu Tín.
Xã Ngô Xá, huyện Quế Dương: Lê Thị Kiêu, hiệu Diệu Hương.
Xã An Lãng, huyện Thụy Nguyên: Lê Tông Miếu, tự Như Anh.
Xã Đông Biện: Trịnh Thị Bảo, hiệu Diệu Phượng; Đào Thị Dung, hiệu Diệu Cảnh.
Ngày tốt tháng 12 năm Vĩnh trị thứ nhất (1676)
Hiệu sinh, trường bản phủ Lê Hữu Đức soạn.
Đề lại Lê Đình Vinh làm người xã Lam Vĩ, huyện Thụy Nguyên viết chữ.
Lê Viết Khôi, người xã An Hoạch, huyện Đông Sơn khắc.
Chú thích:
(1) Viện Viễn đông Bác cổ là một trung tâm nghiên cứu của Pháp về Đông phương học, chủ yếu trên thực địa. Tiền thân là Phái đoàn Khảo cổ tại Đông Dương từ năm 1898 và chính thức thành lập với tên gọi Viện Viễn Đông Bác cổ ngày 20 tháng 1 năm 1900, Viện có nhiệm vụ nghiên cứu, khai quật khảo cổ trên toàn bán đảo Đông Dương. Trụ sở đầu tiên của Viện Viễn Đông Bác Cổ ở Sài Gòn - Nam Kỳ trong ngày đầu thành lập, tới năm 1902 Viện dời ra Hà Nội. Do các biến động của chiến tranh, năm 1957, Viện phải rời Hà Nội tới Campuchia, năm 1975 lại rời Phnom Penh về Paris. Hiện nay, Viện Viễn Đông Bác cổ thuộc Bộ Giáo dục đại học và Nghiên cứu Pháp, có 17 trung tâm nghiên cứu tại 12 quốc gia châu Á. Trong hơn một thế kỷ tồn tại, Viện Viễn Đông Bác cổ đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng về Đông phương học. Tập san Viện Viễn Đông Bác cổ, đã trở nên quen thuộc trong phần danh mục tham khảo của nhiều sách, bài viết về khảo cổ và lịch sử Á châu. Viện Viễn Đông Bác cổ cũng có những ảnh hưởng quan trọng đối với các sử gia Việt Nam thế kỷ 20
(2)Hoa Bát nhã là ẩn dụ trong Phật giáo chỉ cho trí tuệ vô lậu.
(2) Bùi Tấn Công tức Bùi Độ, tự Trung Lập, người đời Đường (618 – 907) làm quan dưới triều Đường Hiến Tông, có công dẹp giặc được phong chức Tấn quốc công, làm tể tướng 30 năm. Sau vì nhóm hoạn quan lộng quyền, ông cáo quan, về nhà ngâm vịnh với các nhà thơ đương thời như Bạch Cư Dị, Lưu Vũ Tích.
Trần Cảnh